chuyên gia chứng nhận trong nhiều trường hợp kiện cáo, đồng thời đặc biệt là một thầy dạy tại các hội thảo trên web và phổ thông, cả cho công chúng và tại cơ sở. Ông đã viết sách về kỹ thuật đùn thực hành trong những năm 1960 cũng như quyền sổ tay Vận hành máy đùn nhựa, hầu như được cập nhật hàng năm bằng tiếng Tây Ban Nha, tiếp Pháp và Tiếng Anh.
Bạn có biết rằng chiều sâu của các kênh chứ không phải số của chúng mới có tính quyết định.
Tôi giảng trong một hội thảo dài một ngày nhập môn kỹ thuật đùn và nhiều người tham dự đều mới đối đầu với kỹ thuật đùn. Do đó tôi giải thích các nguyên lý cơ bản của các vít xoắn danh cho nghành nhựa dẻo. Điều này có ích cho cách người mới nhập môn nhưng đôi khi tôi cũng được một số người đã có trãi nghiệm với kỹ thuật đùn cám ơn về những nội dung cơ bản này mà trước đây họ chưa hề được học. Thế thì tôi mong tất cả mọi người trong lĩnh vực nhựa này đều sẽ thích.
Vít xoắn là một vật chuyền tải. Khi xoay, vít xoắn cố tự nó lùi lại khỏi nòng nhưng một bạch đạn giử nó lại chặn không cho thoát ra đàng sau. Do mọi tác động đều có phản ứng – có nhớ Isaac Newton ? – Nó cũng đẩy chiều kia đi tiến lên phía trước, và có là tác động đẩy vật liệu ra khỏi khuôn.
Vật liệu cần phải ở trạng thái mềm để đi xuyên suốt khuôn. Bất kì loại nhựa nhiệt dẻo nào cũng sẽ trở nên mềm và có đúc được (nhựa) với sức nóng (nhiệt). Khối vật liệu nạp vào đôi khi được làm nóng trước (thường để cho khô), nhưng nhận được nhiều sức nóng nhất khi từ các ma sát bên trong khi nó di chuyển khỏi các vách nòng và bề mặt vít xoắn. Các độ hở từ các cánh đền nòng là nơi nhiệt được sinh ra nhiều nhất. Các ngoại lệ: Một số vít đôi, thiết bị nhỏ, các loại nhựa nhiệt cao và lớp phủ PE, là những trường sức nóng của nòng cũng quan trọng.
Nguyên lý bà vùng. Vít xoắn bắt đầu bằng một vùng nạp liệu: Chiều sâu không đổi, chiếm từ 15 đến 30% của chiều dài. Ở đoạn giữa là vùng nén, các vách đóng lại trên khối hổn hợp hạt/ nóng chảy, dẫn khí ra sau và được chế tạo để các hạt trượt và lăn trong vùng nạp liệu. Vùng này chưa “vách ngăn” của các vít xoắn ngăn cách. Một đoạn kênh đôi khi dài ngăn khối nóng chảy với các hạt, để cho các hạt có thể chà xát lẩn nhau nhằm tạo thêm sức nóng, thay vì trong khối lượng nóng chảy tăng lên và chỉ nóng bằng truyền nhiệt. Cuối cùng, tại đầu ra là vùng đo, chiều sau kênh ổn định một lần nữa là từ 25 đến 50% chiều sau nạp, thường với các bộ phận căng và trộn (kiểu Maddocks, dạng trái thơm, đinh ốc).
Các nòng thông hơi có một lổ trong nòng để khử độ ẩm và thông khí (khi nạp bột). Vít xoắn tại điểm đó khá sâu để tránh đẩy khối nóng chảy ra khỏi cửa thông gió, nơi ấy có lắm một thiết bị chân không và sau đó nông trở lại để bơm khôi nóng chảy ra.
Độ dốc (góc) của các cánh thường là vuông: tức là khoảng cách từ cánh này đến cánh kia bằng đường kính. Điều này tương ứng với góc nghiêng 17.6 độ nếu kênh dạng “mở”. Góc này tăng lên trong nhiều đoạn vách ngăn, và một ít đoạn danh cho các khối nạp liệu nhẹ.
Bề dày cánh ở vào khoảng 0.1 x đường kính. Dày hơn có nghĩa là có thêm diện tích do sức nóng phát triển và lượng chuyển tải hơn cho mỗi đợt (cả hai đều thường không được mong muốn), trong khi dày hơn khiến rò rỉ nhiều hơn ở phía sau (bơm ít hơn nhưng trộn nhiều hơn).
Các vít xoắn lõm. Nhiều vít xoắn được khoan suốt chiều dàu cho phép cả nước (giúp trộn) dầu (tránh mòn đầu PC cứng) hoặc thâm chí không khí (hiếm nhưng rẻ hơn) đi qua. Một ít vít xoắn chỉ được khoan xuống một phần ba, phòng vật liệu bị dính ở góc trong vùng cấp liệu.
Bán kính các góc kênh. Qúa nhỏ sẽ tạo tích tụ khả năng giản chất, quá rộng lãng phí khối lượng kênh. Một công thức sẽ không đáp ứng hết tất cả. Nó tùy thuộc và độ ổn định nhiệt của vật liệu, dòng chảy trong các kênh, việc sử dụng các chất làm sạch và trợ gia công dính kim loại, và vật liệu về mặt vít xoắn.
Các biến đổi bất thường bao gồm nòng có rãnh nhằm tăng đầu vào mỗi đợt (khá phổ biến đối với HDPE , các vít xoắn tạo ít hoặc không tạo lực nén, các thiết bị trộn được khuyến cáo), và dao động chiều sâu kênh song song với các kênh nhằm nâng cao sức trộn độ đồng nhất (vít xoắn dạng sóng).
Các vật liệu. Phần lớn các vít xoắn đều có thể gia công trên máy với các bề mặt các cách được làm rắn, dù bằng một cái nắp hàn lên trên dày khoảng 0.040 đến 0.80 in. (1 đến 2 mm) hoặc bằng cách thấm ni tơ cả bề mặt. Phương pháp sau rẻ hơn, nhưng phòng được sự thay đổi chiều sau của cánh sau này, tuổi thọ hữu dụng tùy vào chiều sáu ni tơ thâm nhập. Mạ crom phổ biến, bề mặt vít xoắn sẽ có hình thức tốt hơn và được cho rằng sẽ cho phép thông suốt (ít có sức nóng mà sát hơn) và hầu như ít giảm chất hơn. Đối với các vật liệu cấp có tính ăn mòn và mài mòn, có thể các kim loại đắt tiền hơn.
Mô phỏng bằng máy vi tính năng suất các vít xoắn được thực hiện rộng rãi và không phải là gì mới mẻ. Tôi đã từng chứng minh điều này trên một máy vi tính DEC (dĩa cứng 20MB) tại các hội thảo của tôi trước đây vào năm 1987 đến 1992, sau này việc đó trở nên quá phức tạp đối với một lớp nhập môn. Các chương trình ngày nay thì tốt nhưng thành công thì tùy thuộc vào các dữ liệu độ nhớt tin cậy được như là chức năng của cả nhiệt độ và hệ số cắt xé.
Danh sách bình luận